Trước khi Đế Chế Loài Người được thành lập, nhân loại đã từng có một giai đoạn cực thịnh về khoa học kỹ thuật được gọi là Kỷ Nguyên Công Nghệ. Giai đoạn này kết thúc từ rất lâu trước bắt đầu Kỷ Nguyên Đế Chế, và lượng lớn tri thức từ thời đại này đã bị thất truyền; nhiều điều hiển nhiên trong Kỷ Nguyên Công Nghệ giờ không gì hơn ngoài những truyền thuyết. Cho tới mười thiên niên kỷ sau, nhân loại vẫn không thể tìm lại được đỉnh cao mà các bậc tiền nhân từng đạt tới.
Mặc dù là “kỷ nguyên vàng” về thành tựu khoa học, nhưng phần lớn nhân loại sau này coi tri thức khoa học tân tiến như một thứ ghê tởm và nguy hiểm. Lý do là bởi nhiều công nghệ trong thời đại này được vũ khí hóa, gây nên sự hủy diệt hàng loạt và khổ đau trên vô số hành tinh trong Kỷ Nguyên Xung Đột. Dư âm từ những hệ quả thảm khốc mà thời kỳ để lại này khiến loài người trong Kỷ Nguyên Đế Chế bằng lòng với sự ngu muội và mê tín.
Kỷ Nguyên Công Nghệ bị phần lớn những học giả Đế Chế coi là “đen tối” do những hiểm họa mà nó đem lại. Các tín đồ sùng đạo và giáo sĩ của Ecclesiarchy cũng chia sẻ cách nhìn nhận này, dù vì lý do là loài người trong Kỷ Nguyên Công Nghệ tôn thờ khoa học như là thánh thần chứ không phải Hoàng Đế – Đấng Cứu Thế đích thực của Nhân Loại.
Nhân Loại Trỗi Dậy
Từ trước khi Kỷ Nguyên Công Nghệ diễn ra, loài người đã tiến hành thuộc địa hóa những hành tinh ngoài Terra, bắt đầu từ hệ Mặt Trời. Tàu vũ trụ thời bấy giờ mới chỉ đạt tốc độ di chuyển cận-ánh sáng; những chuyến hành trình ra bên ngoài hệ Mặt Trời thường mất tới vài trăm năm, và các thuộc địa được thành lập bởi những con tàu vũ trụ được gọi là “Long March” hoàn toàn bị cô lập với phần còn lại của loài người. Nhiều thuộc địa được khai phá bởi những con tàu này về sau được gọi là “Hành Tinh Knight”, do chúng mang theo những cỗ máy biết đi gọi là Knight được dùng trong cả quân sự lẫn dân sự. Các sử gia của Đế Chế đặt tên cho giai đoạn này là “Stellar Exodus”.
Giao thương liên sao khi đó rất hạn chế hoặc gần như không tồn tại. Điều này buộc các hệ sao được cải tạo phải hoàn toàn tự cung tự cấp (thực phẩm, thuốc men, công nghệ, vân vân), dẫn đến sự phát triển ngôn ngữ và văn hóa riêng.
Kỷ Nguyên Công Nghệ thực sự bắt đầu khi động cơ Warp và trường Gellar được phát minh vào khoảng thiên niên kỷ thứ 18, cho phép các con tàu vũ trụ thực hiện những cú nhảy ngắn qua chiều không gian Immaterium (hay “Warp”) mới được khám phá, rút ngắn đáng kể thời gian du hành liên sao. Dù có thể “nhảy cóc” qua nhiều năm ánh sáng, những hiểm nguy rình rập trong Warp khiến những chuyến hành trình này vẫn có thể mất tới vài năm; nhiều con tàu thậm chí còn không tới được đích đến. Dần dần qua nhiều thảm kịch, loài người đã bắt đầu học được cách tận dụng Warp để thực hiện những chuyến du hành với tốc độ nhanh hơn ánh sáng ra khỏi hệ sao của họ.
Sự ra đời của động cơ Warp đã đẩy nhanh tiến trình thuộc địa khắp dải Ngân Hà, và lần đầu tiên giao thương liên sao lẫn liên lạc giữa các vùng lãnh thổ xa xăm trở nên khả thi. Những hạm đội hùng hậu vận chuyển hàng hóa tới khắp mọi ngóc ngách trong thiên hà, kết nối toàn thể nhân loại trên quy mô chưa từng có. Các thuộc địa và Terra được quy về dưới một chính quyền liên bang liên sao, nhờ đó loài người trở nên đoàn kết và hùng mạnh.
Bước ngoặt then chốt thứ hai của Kỷ Nguyên Công Nghệ là phát hiện về gen Navigator bởi những nhân vật bí ẩn (nhiều học giả Đế Chế cho rằng thành tựu này có sự nhúng tay của Hoàng Đế), với hệ quả là sự xuất hiện của các Navigator. Họ là những nhà ngoại cảm sở hữu “con mắt thứ ba”, có thể nhìn vào dòng chảy hỗn loạn của Warp và dẫn lối những con tàu loài người di chuyển qua chúng. Nhờ vậy mà các con tàu vũ trụ đã có thể thực hiện những cú nhảy Warp ở cự ly xa hơn và chính xác hơn, thay vì phải dựa hoàn toàn vào máy tính để định hướng trong Immaterium hỗn loạn như trước kia.
Vị thế của các gia tộc Navigator cũng dần được nâng tầm: từ chỗ ban đầu bị kiểm soát bởi những hiệp hội công thương nghiệp, họ đã trở thành những thế lực riêng vào thiên niên kỷ thứ 19. Đến thiên niên kỷ thứ 20, loài người đã định cư và sinh sôi trên vô số hệ sao khắp thiên hà. Tại những hành tinh quá tải dân số, người ta cho xây dựng những công trình khổng lồ từ plasteel, plascrete, ferrocrete và rockcrete – đây chính là tiền thân của những thành phố Hive về sau.
Một trong số những phát minh trọng đại trong Kỷ Nguyên Công Nghệ là hệ thống cơ sở dữ liệu Standard Template Construct (STC). Những thiết bị này lưu trữ toàn bộ tri thức khoa học kỹ thuật đương thời, cung cấp các chỉ dẫn cần thiết để chế tạo bất cứ thứ gì mà cư dân cần, cho phép duy trì trình độ công nghệ cao tại các thuộc địa loài người.
Hệ thống STC được hoàn thiện chứng kiến sự bùng nổ quá trình thuộc địa hóa tới những biên giới xa xăm nhất của thiên hà. Đây là thời khắc vàng son của sự phát triển công nghệ lẫn chia sẻ tri thức; ngay cả tiền đồn xa xôi nhất cũng có thể tiếp cận toàn bộ phát minh của nhân loại.
Trong quá trình bành trướng vào không gian, loài người đã chạm trán nhiều chủng tộc ngoài hành tinh có tri giác như Aeldari và Orks, đồng thời cũng châm ngòi cho các cuộc xung đột đầu tiên giữa nhân loại và xenos. Loài người lúc này hùng mạnh tới mức các tộc xenos đối địch còn chẳng đáng được coi là mối đe dọa; một vài bản lưu trữ còn sót lại thậm chí tiết lộ danh sách những loài xenos đã bị tuyệt diệt. Các cuộc xung đột này cuối cùng được giải quyết thông qua hiệp ước được ký kết giữa Terra, những vùng thuộc địa và các tộc ngoài hành tinh.
Cũng trong Kỷ Nguyên Công Nghệ, lần đầu tiên sự tồn tại của psyker được chứng thực. Tuy nhiên không ai có thể giải thích được nhờ đâu mà trong suốt hàng ngàn năm, những psyker xa xưa có thể tránh được việc bị daemon chiếm hữu – nguyên nhân dẫn đến sự hủy diệt của nhiều hành tinh sau này. Số lượng psyker trên mỗi hành tinh ban đầu rất khiêm tốn, nhưng vào cuối Kỷ Nguyên Công Nghệ thì tăng vọt một cách bất thường. Ở những thuộc địa cấp tiến và công nghệ phát triển, họ được luật pháp bảo vệ và phát triển năng lực của mình (ít nhất là cho tới trước khi nguy cơ bị daemon chiếm hữu trở nên hiện hữu); trong khi tại những nơi khác, các psyker thường là mục tiêu bị thanh trừng trong những cuộc săn phù thủy hoặc chiến dịch bài trừ psyker.
Máy Móc Nổi Loạn
Loài người thành công chinh phục phần lớn thiên hà trong thời kỳ này một phần là nhờ những cỗ máy được gọi là Men of Iron và Men of Stone. Từng đem về chiến thắng cho nhân loại trong nhiều cuộc chiến, nhưng không hiểu vì lý do gì mà những cỗ máy thông mình hình người này lại phản chủ vào cuối thiên niên kỷ thứ 23, châm ngòi cho những cuộc chiến kinh hoàng trên nhiều lãnh thổ của loài người.
Trong cuộc xung đột mà sau này được biết đến dưới tên gọi “Cybernetic Revolt,” cả hai phe đều tung ra những siêu vũ khí hủy diệt “kinh thiên động địa”. Trong số đó có Mechanivore, những cỗ máy biết suy nghĩ khổng lồ với khả năng nhấc bổng cả lục địa và xé toạc hành tinh tới tận lõi; thậm chí còn có thể nuốt chủng không-thời gian dưới dạng dữ liệu. Một vũ khí khác cũng khủng bố không kém là “sun-snuffers” – những cỗ máy mà khi duỗi ra biến thành các cấu trúc khổng lồ trong không gian với kích thước lớn hơn cả vành đai sao Thổ, được chế tạo để nuốt chửng các vì sao. Và có lẽ món vũ khí nguy hiểm lẫn được sử dụng thường xuyên nhất là omniphages: những bầy máy móc nano thông minh siêu nhỏ, có thể quét sạch mọi thứ trên bề mặt hành tinh chỉ trong vài giờ đồng hồ.
Cybernetic Revolt kết thúc với phần thắng thuộc về liên minh con người và đồng minh, nhưng với một cái giá rất đắt. Xã hội liên sao của loài người hứng chịu tổn thất nặng nề, trong khi nền kinh tế và sự thống nhất chính trị bị giáng một đòn mạnh, trở thành tiền đề dẫn tới sự sụp đổ sau này trong Kỷ Nguyên Xung Đột.
Vì cuộc nổi loạn này mà ở Đế Chế Loài Người sau này, việc phát triển trí thông minh nhân tạo (giờ được gọi là “Abominable Intelligence,” hay Silica Animus) bị liệt vào hàng những tội ác nghiêm trọng nhất. Một hệ quả khác sinh ra từ nỗi kinh sợ đối với AI là sự ra đời của servitor: loại nô bộc được tạo ra bằng cách thay thế một phần cơ thể và não bộ của những tên tội phạm bị kết án hoặc những đối tượng thiểu năng, được dùng làm lực lượng lao động thay thế cho Men of Iron.
Màn Đêm Đang Tới…
Thời đại vàng son của loài người rồi cũng tới hồi kết – nhưng theo cái cách mà không ai ngờ tới. Du hành Warp càng lúc càng khó khăn, và cuối cùng là bất khả thi do những cơn bão dữ dội trong Warp. Nền kinh tế liên sao vốn đã bị tổn thương vì cuộc chiến với Men of Iron, cộng với tần suất và cường độ những cơn bão Warp ngày càng tăng khiến giao thương và liên lạc giữa những vùng lãnh thổ loài người sụp đổ, cô lập các hành tinh và hệ sao mà con người sinh sống. Những hành tinh có dân số lớn như Terra vốn phụ thuộc nhiều vào giao thương, giờ đột nhiên mất khả năng nuôi sống vô số cư dân sống trên đó, dẫn tới nạn đói lan tràn khắp nơi.
Với việc du hành Warp đột ngột bị cắt đứt, nền văn minh liên sao thống nhất trước kia của loài người tan rã thành những hành tinh và hệ sao biệt lập. Những vụ việc bị daemonic chiếm hữu và sự điên loạn tràn lan trong cộng đồng psyker, trong khi tình trạng cô lập giữa các vùng lãnh thổ ngày càng trầm trọng. Hệ quả là những cuộc xung đột trong nội bộ loài người nổ ra, hỗn loạn không thể kiểm soát và nền văn minh dần bị thay thế bởi sự man rợ suốt 5,000 năm sau khi Kỷ Nguyên Công Nghệ chấm dứt. Giai đoạn tăm tối này về sau được các học giả Đế Chế đặt tên là “Kỷ Nguyên Xung Đột”.