Lightsaber là một vũ khí đặc biệt, độc nhất vô nhị trong Thiên hà, và nó gần như sinh ra là để dành cho các Force-user chứ người thường khó mà làm chủ được. Một thanh Lightsaber trong tay một Force-user với kỹ năng chiến đấu cao là một cơn ác mộng với bất cứ kẻ địch nào, những trận đấu tay đôi Lightsaber cũng rất đẹp mắt cũng như căng thẳng. Suốt chiều dài hàng ngàn năm lịch sử của Lightsaber, những người sử dụng chúng đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo ra những kỹ thuật khác nhau rất đa dạng. Trong bài viết lần này, hãy cùng tìm hiểu sâu hơn về nghệ thuật chiến đấu với Lightsaber.
Lightsaber combat – như cái tên, là cách người sử dụng chiến đấu bằng thanh Lightsaber. Cách chiến đấu này đòi hỏi kỹ thuật cũng như biết cách khai thác những thế mạnh từ thứ vũ khí đặc biệt như Lightsaber. Trong đó đặc biệt nhất là cách giữ vũ khí cân bằng vì tất cả sức nặng đều nằm ở cán Lightsaber, và lưỡi kiếm thì có thể gây sát thương ở mọi góc độ. Phát kiến vĩ đại nhất về cách chiến đấu bằng Lightsaber chính là Bảy Kỹ Thuật Lightsaber của Jedi Order, mặc dù cũng có thêm những kỹ thuật khác được sáng tạo ra như kỹ thuật Dun Moch của Sith.
Những kỹ thuật này mang đặc điểm của thời kỳ nó được sáng tạo ra, dù sau này luôn được cải tiến bởi các thế hệ sau. Một ví dụ là kỹ thuật Makashi được tạo ra vào thời điểm mà Dark Jedi và những kẻ dùng Thần Lực hoành hành khắp thiên hà, do đó những cuộc đấu Lightsaber tay đôi xảy ra như cơm bữa. Trong khi kỹ thuật Soresu thì được tạo ra khi mà những cuộc đấu Lightsaber không còn nhiều nữa và Jedi thì thường phải đối phó với những kẻ địch dùng blaster hoặc gunslinger hơn là những kẻ dùng Lightsaber.
1. Tổng quan
Trải dài qua hàng ngàn năm lịch sử của Lightsaber, nghệ thuật của việc chiến đấu với chúng dần được phát triển thành bảy kỹ thuật cơ bản và nhiều kỹ thuật biến tướng khác. Rất khó để thành thạo nhiều kỹ thuật, một lý do trong số đó là mọi trọng lượng của một thanh Lightsaber nằm ở chuôi của nó, và mỗi kỹ thuật lại phù hợp với một loại Lightsaber có chuôi riêng. Thường thì chỉ có một người cảm nhận được Thần Lực mới có thể hoàn toàn làm chủ một kỹ thuật, dù rằng vẫn còn những người không cảm nhận được Thần Lực nhưng vẫn có thể chiến đấu bằng Lightsaber như Pre Vizsla hay General Grievous. Tất cả bảy kỹ thuật chiến đấu đều bao gồm những kỹ năng cơ bản của kiếm thuật, như tư thế phòng thủ, tấn công, phản đòn hay đỡ đòn. Ngoài ra còn kỹ thuật phòng thủ phản công khi tấn công kẻ địch sau khi đỡ hay gạt một đòn đánh.
Lightsaber là một vũ khí cực kỳ linh hoạt, nhờ vào sự đặc biệt nhanh nhẹn cũng như khả năng gây sát thương ở mọi góc của lưỡi kiếm. Có thể cầm bằng một tay hoặc hai tay. Các Jedi được huấn luyện để sử dụng Thần Lực như một phương tiện kết nối với vũ khí của mình. Thông qua sự kết nối này, thanh kiếm trở thành một phần cơ thể của Jedi và di chuyển tùy ý người sử dụng. Đây cũng là nguyên do tại sao một Jedi có thể sử dụng Lightsaber một cách thành thạo, nhanh nhẹn cũng như chính xác đến vậy. Vào lúc ban đầu khi Sith còn đông đảo, nghệ thuật chiến đấu với Lightsaber phát triển cực kỳ mạnh mẽ, nhưng về sau này, hiếm khi nào Jedi gặp được một kẻ địch có vũ khí địch lại được Lightsaber.
Mặc dù lưỡi kiếm không có trọng lượng, Jedi hầu hết dùng cả hai tay để tấn công. Đó là vì để chém xuyên qua vật thể thì vẫn cần sức lực nhất định dồn vào đòn đánh. Khi lưỡi kiếm mới tiếp xúc với vật thể thì cần một sức lực nhất định để cắt vào vật thể và giữ lưỡi kiếm ở đó đến khi vật thể bị sức nóng từ lưỡi kiếm nung chảy. Vung kiếm càng nhanh và mạnh thì vật thể càng bị cắt dễ hơn. Nếu dùng ít lực khi chém thì vết cắt sẽ không sâu bằng. Khi hai thanh Lightsaber chạm nhau, lực đẩy giữa chúng sẽ biến hai lưỡi kiếm thành một dạng “vật thể rắn” và năng lượng của hai lưỡi kiếm khi va chạm sẽ gây ra phản ứng đến cán kiếm. Những phản ứng này có thể dễ dàng bị chế ngự nếu người sử dụng có thể dùng Thần Lực nhưng có thể sẽ là vấn đề nếu người sử dụng không dùng được Thần Lực.
2. Lịch sử phát triển
Ngược dòng thời gian thì khi các kỹ năng chiến đấu bằng Lightsaber được phát triển và Lightsaber trở thành vũ khí chính của các Jedi (khoảng năm 7000 BBY) thì họ cần một kỹ thuật chiến đấu mà có thể khai thác điểm mạnh cũng như hạn chế điểm yếu của vũ khí này. Kỹ thuật thứ nhất, Shii-Cho, là một kỹ thuật khá đơn giản, không cầu kỳ, chỉ dựa trên những kỹ năng và nguyên tắc cơ bản lâu đời của kiếm thuật. Kỹ thuật Shii-Cho cũng đã định nghĩa các thế tấn công, gạt đòn, các phần cơ thể và chú trọng luyện tập chúng để sử dụng thành thạo Lightsaber. Khi những kẻ trong bóng tối và các Jedi sa ngã bắt đầu trỗi dậy, đấu tay đôi bằng Lightsaber gần như trở thành một việc hàng ngày xảy ra, và kỹ thuật Shii-Cho không còn phù hợp nữa vì Shii-Cho không dùng cho việc đấu tay đôi Lightsaber. Và việc phát triển một kỹ thuật mới là rất quan trọng, do đó, Kỹ Thuật Thứ Hai, Makashi ra đời. Một kỹ thuật tạo ra cho việc chiến đấu với một thanh Lightsaber khác sao cho hiệu quả nhất. Kỹ thuật này cực kỳ phổ biến vào thời điểm đó, và nó đã sản sinh ra rất nhiều những chiến binh vĩ đại nhất của thiên hà, trong đó đáng chú ý nhất là Tulak Hord, một trong những Sith Lord đầu tiên.
Nhưng rồi kỹ thuật Makashi cũng dần trở nên kém hoàn chỉnh và lỗi thời do sự tăng lên chóng mặt của việc sử dụng blaster cũng như các vũ khí tầm xa khác. Do vậy, Kỹ Thuật Thứ Ba, Soresu được khai sinh. Soresu được phát triển dựa trên Shii-Cho và thêm vào các kỹ năng đỡ những đòn tấn công từ blaster. Soresu đề cao sự phòng thủ, biểu hiện ở chỗ các di chuyển của người dùng Soresu rất chặt chẽ và kín đáo. Một bậc thầy sử dụng Soresu có thể chống lại một số lượng kẻ địch lớn. Nhưng Soresu lại quá thiên về phòng thủ và do đó bị khá nhiều người chỉ trích. Như một cách đáp lại cho những khuyết điểm của Soresu, Kỹ Thuật Thứ Tư (Ataru) và Kỹ Thuật Thứ Năm (Shien) được phát triển song song. Cả Ataru và Shien đều thiên về tấn công dồn dập và mạnh mẽ, người dùng Ataru và Shien tập trung vào tốc độ, sự linh hoạt trước rồi mới đến sức mạnh trong các đòn đánh. Đặc biệt là kỹ thuật Shien khai thác khả năng đỡ được đạn từ blaster và phản lại về phía kẻ tấn công. Về sau, một dạng cải tiến của Shien là Djem So được phát triển và tập trung hơn cho những trận đấu Lightsaber.
Dù Ataru và Shien cho thấy hiệu quả rất lớn thì khá nhiều những Jedi mà cẩn trọng cũng như không chú trọng việc đối đầu trực diện đã nghiên cứu và sáng tạo một kỹ thuật mới. Kỹ thuật này sẽ cân bằng giữa mọi kỹ thuật khác và chú trọng đến sự ổn định và bình tĩnh, phù hợp với triết lý của Jedi. Và thế là Kỹ Thuật Thứ Sáu, Niman ra đời. Được phát triển từ kỹ năng chiến đấu bằng song kiếm Jar’Kai, Niman chính là một kỹ thuật mà đề cao khả năng kiểm soát và sử dụng Lightsaber mà không cần tập trung vào sức mạnh cũng như tấn công. Nhưng mỉa mai thay khi nó lại là kỹ thuật yêu thích của Exar Kun, một Jedi sa ngã và trở thành Sith Lord và cũng là một chiến binh xuất sắc. Với kỹ năng của mình, Exar Kun tự cho rằng mình là chiến binh xuất sắc nhất thiên hà, cho dù sau này cuối cùng hắn cũng gặp được đối thủ xứng tầm là Ulic Qel-Droma, một bậc thầy của kỹ thuật Djem So. Exar Kun cũng đã đánh bại thầy dạy của mình là Vodo-Siosk Baas, hắn cũng là một trong những người sử dụng một thanh Lightsaber hai đầu sớm nhất khi hắn chế tạo nó từ những thông tin có được từ một cái Sith Holocron.
Vào khoảng thời gian của Cuộc Thanh Trừng Jedi đầu tiên (3954 BBY – 3951 BBY), Juyo, Kỹ Thuật Thứ Bảy được tạo nên. Đây là một kỹ thuật cao cấp và hoàn toàn dành cho chiến đấu. Để thành thạo Juyo, người tập luyện cần có kỹ năng cao ở các kỹ thuật khác và Juyo trở nên rất giống với cách chiến đấu của Sith – sự mạnh mẽ, cường độ tấn công dồn dập và chú trọng khả năng tấn công. Juyo được tạo thành từ sự nhanh nhẹn trong chuyển động của Makashi, chuyển động chặt chẽ nhưng mạnh bạo của Shien, cùng sự linh hoạt của Niman. Bậc thầy sử dụng Juyo rất ghét phải dạy kỹ thuật này cho những ai thiếu quyết đoán, và điều này dẫn đến số lượng người luyện tập Juyo rất ít và sự phát triển của kỹ thuật này cũng không nhiều trong suốt một ngàn năm sau khi Army of Light giải tán trong Cải Cách Ruusan. Sau Cuộc Thanh Trừng Jedi đầu tiên thì chỉ còn duy nhất bốn người luyện tập Juyo còn sống sót là các Jedi Master Vrook Lamar, Zez-Kai Ell, Kavar và Atris.
Với sự nổ ra của Great Galactic War (3681 BBY – 3653 BBY), cùng sự trỗi dậy của Đế Chế Sith, một lần nữa, các Jedi lại đối đầu với kẻ thù của họ trong một cuộc chiến lan rộng toàn thiên hà. Trong suốt thời kỳ cai trị của mình, các Sith Lords vẫn duy trì việc sử dụng những kỹ thuật truyền thống, ví dụ như Emperor’s Wrath Scourge học cách sử dụng Kỹ thuật thứ ba, thứ tư và thứ bảy. Ngoài ra thì các Sith Lords cũng đã giành thời gian để tự phát triển những kỹ thuật chiến đấu của riêng mình, mặc dù không có một ghi chép rõ ràng nào về những kỹ thuật ấy. Các Jedi trong khoảng thời gian này cũng đã phát triển và cải tiến kỹ thuật Juyo thành một dạng mới – Kos, chọn lọc những cái tinh túy nhất từ kỹ thuật Juyo gốc để hợp với khoảng thời gian hiểm nghèo này, khi liên tục xảy ra những cuộc chiến giữa Sith và Jedi. Quãng thời gian này cũng xuất hiện khá nhiều các chiến binh xuất sắc của mỗi phe như Jaric Kaedan, bậc thầy sử dụng dạng biến thể Kos của Kỹ thuật thứ bảy và Orgus Din, người đã đạt tới một trình độ cực cao nhờ việc luyện tập các kỹ thuật không ngừng nghỉ để bù vào việc thiếu hụt năng khiếu trong việc cảm nhận Thần Lực. Bên phía Sith thì có Vindacan và Darth Malgus, là những Sith Lords đầu tiên trong hơn 300 năm giao đấu với các Jedi, Vindacan và Darth Malgus giao đấu với Kao Cen Darach và Satele Shan – người sau này trở thành Grand Master của Hội Đồng Jedi. Cuộc giao đấu giữa Vindacan và Darth Malgus với Kao Cen và Satele diễn ra ở trận đánh Korriban khi Đế Chế Sith trỗi dậy và tấn công nơi đây. Kao Cen ở lại cầm chân Vindacan và Malgus để Satele có thể thoát khỏi Korriban và báo cho Cộng Hòa. Kao Cen hạ gục Vindacan nhưng sau đó ông bị Malgus giết.
Còn trong New Sith Wars (2000 BBY – 1000 BBY), một chiến binh người Twi’lek được biết đến với cái tên Kas’im trỗi dậy giữa các Sith và trở thành thầy huấn luyện chiến đấu tại Học viện Korriban, đào tạo các chiến binh cho hội Brotherhood of Darkness. Rất nhiều học trò của Kas’im trở thành các chiến binh xuất sắc, đặc biệt có một kẻ sau này cực kỳ nổi tiếng – Darth Bane, người lập ra Rule of Two.
Sau trận chiến Ruusan cuối cùng (1000 BBY), hầu hết Sith và các tổ chức bóng tối đã bị tiêu diệt, hoặc bị buộc phải lẩn trốn. Do vậy, cách thức chiến đấu bằng Lightsaber của Jedi cũng được phát triển khác đi như một lẽ tất yếu. Kỹ thuật đấu tay đôi Lightsaber Makashi trở nên lỗi thời do sự kém hiệu quả trong việc chống lại blaster, vì đơn giản đâu còn kẻ địch nào cầm Lightsaber nữa. Điều này cũng xảy ra với việc phát triển các loại Lightsaber khác nhau, đến năm 32 BBY, đã chẳng còn ai sử dụng Lightsaber hai đầu nữa cả, kể cả trong luyện tập lẫn trong chiến đấu. Mặc dù vậy, thời kỳ này cũng đã sản sinh ra một trong những chiến binh Jedi vĩ đại nhất: Yoda. Vị Grand Master của Jedi Order thành thạo cả bảy kỹ thuật chiến đấu, nhờ vào việc học hỏi và luyện tập không ngừng nghỉ trong suốt 900 năm. Nhưng Yoda thành thạo nhất là Kỹ thuật Ataru, vì kỹ thuật ấy phù hợp nhất với thể hình bé nhỏ của ông.
Một vài chiến binh khác cũng xuất sắc không kém, đó là Dooku, người kiên quyết luyện tập Makashi cho dù nó đã quá cũ và lỗi thời, nhưng Dooku cho rằng đó mới là kỹ thuật chiến đấu cao nhất. Một người khác là Siolo Ur Manka, người từng được đánh giá là một Jedi xuất sắc, đến khi ông từ bỏ Lightsaber và chuyển sang tập trung vào chiến đấu bằng gậy – ông cho đó là một kỹ thuật “thuần khiết hơn”. Chúng ta cũng không thể không kể đến Mace Windu, bậc thầy của kỹ thuật Juyo và luôn tìm cách để hoàn thiện kỹ thuật đó. Và kết quả là kỹ thuật mới đã được ông sáng tạo ra – Vaapad. Đó là một kỹ thuật khá nguy hiểm khi nó rất gần với cách chiến đấu tàn bạo của Sith, Vaapad yêu cầu người dùng phải tận hưởng sự căng thẳng của trận chiến và truyền sự giận dữ của bản thân vào đòn đánh, khiến kẻ địch cảm nhận được nó.
Còn về phần các Sith Lords, tuy hầu hết đã bị tiêu diệt trong Trận Chiến Ruusan cuối cùng, và thêm việc tồn tại Rule of Two nên Sith tuy được cho là đã biến mất, nhưng thực chất vẫn còn tồn tại trong bóng tối. Trong số các Sith Lords ở thời kỳ này, nổi bật nhất trong khả năng chiến đấu là đệ tử của Darth Sidious – Darth Maul. Darth Maul được coi là một trong những Sith được huấn luyện tốt nhất và kỹ thuật chiến đấu của hắn khá là khó nắm bắt, dường như nó mang một phần của kỹ thuật Juyo, nhưng đã được phát triển theo tinh thần của Sith. Với một kỹ năng sử dụng Lightsaber cực kỳ xuất sắc, vũ khí của Darth Maul là một cây Lightsaber hai đầu. Rất nhiều các Jedi Master đã ngã xuống trước Darth Maul như Master Anoon Bondara và Master Qui-Gon Jinn, nhưng Darth Maul lại bị đánh bại bởi padawan của Master Qui-Gon là Obi-Wan Kenobi.